TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI HỘI QUÝ 3/2022
I. Kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh- liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2022
1. Hoàn cảnh ra đời
– Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tuy nhiên, do chính quyền cách mạng còn non trẻ nên thực dân Pháp đã âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Nhiều chiến sĩ, đồng bào ta đã bị thương và vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào, chính quyền Việt Nam đã xúc tiến vận động thành lập một tổ chức, lấy tên gọi là Hội giúp binh sĩ tử nạn. Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên là Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa, Bình Trị Thiên, ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mời làm hội trưởng danh dự của Hội giúp binh sĩ tử nạn.
– Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ.
– Tháng 6-1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nhà Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sỹ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh toàn quốc”.
– Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
– Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, theo Chỉ thịsố223-CT/TU ngày 8-7-1975 của Ban Bí thư, từ năm 1975, ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành Ngày Thương binh – Liệt sĩ.
2. Những con số cần ghi nhớ
– Có 1.146.250 liệt sỹ trên cả nước, trong đó:
+ 191.605 liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Pháp;
+ 849.018 liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ;
+ 105.627 liệt sỹ hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo…)
– Hơn 200.000 hài cốt liệt sĩchưa được tìm thấy, thi thể các anh còn nằm lại trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia, Biển Đông…
– Hơn 300.000 hài cốt liệt sĩđã được quy tập về các nghĩa trang nhưng chưa xác định được danh tính tên tuổi, quê quán, đơn vị…
– Tỉnh có nhiều liệt sĩhysinh nhất: Tỉnh Quảng Nam có 65.000 liệt sĩhysinh trong các cuộc chiến tranh. Ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh (tính đến năm 2012). Huyện có nhiều liệt sĩnhất cả nước là huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sỹ.
– Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, có khoảng hơn 4 triệu dân thường Việt Nam ở hai miền (miền Bắc và miền Nam) đã chết và bị thương tật suốt đời do bom đạn, do kẻ thù giết hại…
– Trên 127.000 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng có chồng, con hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Một số Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu:
+ Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam:chồng, chín con đẻ, một con rể, 2 cháu ngoại là liệt sỹ;
+ Mẹ Trần Thị Mít ở Quảng Trị:chồng, sáu con đẻ, một con dâu và một cháu nội là liệt sỹ;
+ Mẹ Lê Thị Tự ở Quảng Nam:chínngườicon là Liệt sỹ;
+ Mẹ Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận, mẹ Nguyễn Thị Rành ở huyện Củ Chi (Sài Gòn) đều có tám con là liệt sĩ, bản thân 2 mẹ cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
– Gần 13.000 anh hùng LLVTND và Anh hùng Lao động.
– Gần 800.000 thương binh và người được hưởng chính sách như thương binh.
– Hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ bị nhiễm chất độc da cam.
– Gần 111.000 người hoạt động cách mạng, người tham gia kháng chiến bị địch bắt giam, tù đày, tra tấn trong các nhà tù nổi tiếng như (Nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Lao Bảo, Côn Đảo, Phú Quốc…)
Chúng ta đời đời ghi nhớ, tri ân, biết ơn sự hy sinh của các anh hùng liệt sỹ, các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình có người thân đã cống hiến xương máu, cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc. Trong đó có nhiều anh hùng vô danh, đã hoá thân mình vào dáng hình xứ sở, tên của họ chính là tên của Tổ Quốc ta hôm nay và mãi mãi về sau.
3. Các hoạt động kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh- Liệt sỹ
– Tổ chức các hoạt động thăm, tặng quà gia đình thương, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, gia đình chính sách, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, tổ chức đám giỗ liệt sĩ, làm đẹp bàn thờ, viếng hương tại các di tích lịch sử, nghĩa trang liệt sĩ; ra quân dọn, lau sạch các phần mộ, làm đẹp nghĩa trang liệt sĩ; các hoạt động “Tìm về di tích lịch sử, văn hóa”;
– Phối hợp tổ chức Lễ dâng hương, dâng hoa, thắp nến tri ân các Anh hùng liệt sĩ tại các công trình ghi công liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ; phát động, vận động xây dựng quỹ Đền ơn đáp nghĩa…
II. Kỷ niệm 77 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2022) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2022)
1. Ý nghĩa lịch sử
– Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam lên 01 vị trí mới với những ý nghĩa về chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc. Cuộc cách mạng ấy đã để lại nhiều giá trị và bài học vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay và trong tương lai.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Támnăm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam, là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng mộtcách sáng tạo đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam.
2. Những nội dung giáo dục truyền thống cho các tầng lớp phụ nữ
Thứ nhất, giáo dục cho các tầng lớp phụ nữ kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Giáo dục truyền thống cho các tầng lớp phụ nữ trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để các tầng lớp phụ nữ có niềm tin khoa học vững chắc, niềm tự hào dân tộc tiếp thêm động lực đưa cách mạng nước ta đi đến mục tiêu cuối cùng.
Thứ hai, giáo dục cho các tầng lớp phụ nữ truyền thống yêu nước nồng nàn,tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc.Truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc được hội tụ và kết tinh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Các tầng lớp phụ nữ hôm nay tựhào mang trongmình truyềnthống yêu nước nồng nàn, tinhthần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường dân tộc. Truyền thống yêu nước đó cần được tầng lớp phụ nữ hôm nay thể hiện bằng việc ra sức đóng góp công sức, trí tuệ để góp phần xây dựng quê hương, đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, giáo dục cho các tầng lớp phụ nữ truyền thống đoàn kết dân tộc,lao độngsáng tạo của con ngườiViệt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã cho thấy những giá trịcủa tinh thần đoàn kết dân tộc, khắc phục khó khăn, cần cù sáng tạo, đồng tâm hiệp lực để đứnglên đấu tranh giành thắng lợi. Những giá trị đó hiện nay cần tiếp tục được khơi dậy và nhân lên gấp bội, khi một dân tộc đã đoàn kết một lòng thì sẽ làm được những điều to lớn, phi thường. Các tầng lớp phụ nữ hôm naycần phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, không ngừng học tập,rèn luyện làm giàu tri thức, sẵn sàng gánh vác trọng trách chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu "đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thứ tư, giáo dục cho các tầng lớp phụ nữ tinh thần nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo về phương pháp cách mạng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phản ánh sâu sắc bản chất nhân văn của con người Việt Nam, hòa hiếu “không đối đầu” vì mục tiêu, nhiệm vụ chung của cách mạng, của dân tộc. Đây là bài học lớn cho cả dân tộc nói chung và các tầng lớp phụ nữ nói riêng hôm nay, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế cần ứng xử, giải quyết hài hòa các mối quan hệ với các nước và cộng đồng quốc tế, tăng cường tạo dựng lòng tin, không ngừng nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam nhằm góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng./.
Tải tài liệu sinh hoạt Quý 3: Tại đây
Hội LHPN thành phố Đà Nẵng