Không phải ngẫu nhiên tôi gọi chị như vậy. Trong suốt những năm tháng tuổi thơ, chị đã ước mơ trở thành cô giáo dạy văn trên mảnh đất quê cha. Ước mơ ấy đã thành hiện thực khi chị tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm 2 Xuân Hòa, Hà Nội vào năm 1984. Nhưng 5 năm sau, như một cơ duyên, chị đến với công tác Hội và gắn bó đến tận bây giờ…
1. Lần đầu tiên tiếp xúc với chị, nghe qua giọng nói, tôi không nghĩ chị có gốc gác Thăng Bình, Quảng Nam. Bởi lẽ, giọng nói đậm chất miền Bắc chị đang sở hữu ấy chẳng có “họ hàng” gì với người xứ Quảng chúng tôi. Nhưng hỏi ra mới biết, chị sinh ra và lớn lên trên Nông trường chè Quốc doanh Vân Lĩnh (Phú Thọ), nơi ba chị và những người con ưu tú miền Nam thuộc Trung đoàn bộ binh 210 (Sư đoàn 305 của Liên khu V) tập kết ra Bắc sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới giữa hai miền Nam-Bắc. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Sư đoàn 305 đã điều Trung đoàn Bộ binh 210 tham gia xây dựng kinh tế Xã hội chủ nghĩa tại 2 huyện Thanh Ba và Đoan Hùng. Những chiến sĩ miền Nam khi đó đã ban đồi sẻ núi, khai hóa rừng sâu tại xã Thanh Vân để thành lập Nông trường chè Quốc doanh Vân Lĩnh, thuộc tỉnh Phú Thọ, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế Xã hội chủ nghĩa miền Bắc và chi viện lương thực, thực phẩm cho chiến trường miền Nam.
Hồi đó, trên nông trường chè Vân Lĩnh, hầu hết là lớp người miền Nam tập kết ra Bắc, nên ký ức tuổi thơ vẫn sống mãi trong chị. Đó là những năm tháng một buổi đến trường, một buổi theo chân người lớn đi hái chè, trồng khoai, sắn; vào rừng đốn củi. Sâu lắng nhất trong tâm hồn chị là những lần ngồi bên người lớn dưới gốc cây cổ thụ có treo loa phát thanh để nghe tin chiến thắng từ miền Nam; hoặc những đêm lặng lẽ chứng kiến các cô, các chú sụt sùi trong nước mắt khi đau đáu nhớ về quê hương, và khi được tin người thân hy sinh từ miền Nam báo ra. Cũng chính từ những hình ảnh đó, nên dẫu còn rất trẻ, nhưng chị cũng thấu hiểu được nỗi căm thù của những người con miền Nam khi quê nhà bị giặc dày xéo, đốt phá. Và chị cũng được chứng kiến niềm vui òa vỡ trong nụ cười và nước mắt của các cô, các chú và ba mẹ khi được tin quê nhà hoàn toàn giải phóng. Sống trong cảnh ấy, thế hệ trẻ được sinh ra và lớn lên trên nông trường chè Vân Lĩnh như chị luôn cảm nhận sâu sắc và theo suốt cùng năm tháng đó tình cảm chân thành của tình đồng hương, đồng chí lẫn sự hi sinh, mất mát của thế hệ cha anh.
Chị nhớ lại: “Những người lính thuộc Trung đoàn 210 về đây, tiếng là khai hoang, cuốc đất, trồng chè, nhưng trong lòng lúc nào cũng canh cánh nghĩ về quê hương miền Nam. Tất cả luôn sẵn sàng lên đường trở lại quê hương chiến đấu khi Tổ quốc cần. Bởi ở đó không chỉ là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn mà còn là miền Nam thân yêu đang chìm trong bom đạn quân thù”. Vì cùng chung mục đích và lý tưởng, nên thế hệ cha mẹ chị luôn sống trong cảnh “ngày Bắc đêm Nam” cùng nỗi nhớ quê hương không bao giờ nguôi.
Trong lòng những người con miền Nam tập kết ra Bắc, tham gia lao động trên những núi, đồi bát ngát màu xanh của chè, Vân Lĩnh trở thành quê hương thứ hai. Lẽ vì thế mà khi chị cất tiếng khóc chào đời, ba mẹ chị đã không ngần ngại đặt tên chị là Lĩnh, như muốn gợi nhớ lại những ngày tháng sống và lao động trên mảnh đất Vân Lĩnh ấy. Tất cả điều đó đã hun đúc trong chị tinh thần tự hào dân tộc cũng như lòng quyết tâm phải học thật giỏi để sau này về xây dựng quê hương, mang lại niềm vui cho đấng sinh thành.
Nuôi dưỡng ước mơ trở thành cô giáo dạy Văn suốt những năm tháng tuổi thơ, năm 1985, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm 2 Xuân Hòa (Hà Nội), cô sinh viên Đỗ Thị Kim Lĩnh quyết định về quê hương Quảng Nam dạy học. Lúc này, cô gái trẻ trở thành giảng viên bộ môn Văn hành chính của Ban Khoa học cơ bản, trường Trung cấp Nông nghiệp Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là cô giáo đứng trên bục giảng, nhưng hằng ngày sau giờ lên lớp, chị vẫn cùng học sinh xuống đồng tại khu sản xuất của trường. Sự đồng cam, cộng khổ trong khoảng thời gian này đã cho chị những trải nghiệm mới về tình đất, tình người nơi quê hương. Giúp chị trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành động, trao dồi thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm của mình. Cũng tại đây, chị đã se duyên cùng người đồng nghiệp Thân Đức Thác, giảng viên môn vật lý của trường. Nhà nghèo, đám cưới của anh chị diễn ra đơn giản nhưng ấm cúng với sự chung vui của nhiều thế hệ học trò và đồng nghiệp.
Ngày ấy, chị vẫn nghĩ mình sẽ theo nghiệp giáo viên đến cuối đời. Nhưng biến cố đã xảy ra. Năm 1990, trường Trung cấp Nông nghiệp Điện Bàn – nơi chị đang công tác có quyết định sát nhập cùng trường Trung cấp Nông nghiệp Tam Kỳ. Việc này đã khiến Ban Khoa học cơ bản gặp khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự, con người. Được sự động viên của chồng, chị ra Đà Nẵng dự thi vào lớp Đại học Luật hệ tại chức thuộc Đại học Luật Hà Nội. Với tinh thần học hỏi và bị môn học quyến rũ, chị đã trúng tuyển theo học lớp Luật khoá 1, hệ tại chức được tổ chức học tại thành phố Đà Nẵng. Thời gian này, chị được giới thiệu về làm cán bộ tổng hợp tại Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Là một phụ nữ đã có chồng, chị bảo, nếu ngày ấy không nhờ sự động viên của chồng và sự cảm thông, giúp đỡ của mẹ chồng, chị sẽ không có động lực để hoàn thành một lúc 3 nhiệm vụ chính là vừa hoàn thành khóa học, vừa làm tốt công tác Hội, vừa mang thai và sinh cháu thứ hai.
Làm công tác Hội phụ nữ, chị có dịp đi về nhiều vùng quê trên khắp địa bàn Quảng Nam-Đà Nẵng (cũ). Những chuyến đi như thế đã giúp chị củng cố thêm tình yêu với công tác Hội. Có lần, trong chuyến đi thăm Bộ đội Biên phòng ở huyện Hiên (nay là 2 huyện Đông Giang và Tây Giang) và Giằng (nay là huyện Nam Giang) kéo dài 20 ngày, thì có đến 12 ngày các anh, các chị phải đi bộ, băng rừng lội suối vì điều kiện giao thông cách trở. Trong chuyến đi này, các chị phối hợp với Bộ đội Biên phòng tư vấn, tuyên truyền cho phụ nữ miền núi kiến thức về sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc nuôi dạy con… Chuyến đi vất vả nhưng ấm áp nghĩa tình, tận mắt nhìn thấy nỗi vất vả của các chiến sĩ Biên phòng cũng như cuộc sống thiếu thốn của đồng bào vùng cao, nên khi trở về, chị tham mưu Ban lãnh đạo tiếp tục thực hiện có hiệu quả một số hoạt động như:Hướng về chiến sĩ biên giới, hải đảo; Áo ấm mùa đông chiến sĩ; Chăm sóc, giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ…
Chị cũng là người trong số rất ít những người lãnh đạo nữ của thành phố Đà Nẵng đã được đến thăm Quần đảo Trường Sa với biết bao kỷ niệm thiêng liêng về mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió. Cũng chính tình cảm chân thành, ấm áp, những hành động quên mình của cán bộ, chiến sĩ, những người dân ở những nơi chị đặt chân đến đã để lại trong lòng chị nhiều cảm xúc khác nhau, tạo nên sợi dây gắn kết cuộc đời chị với công tác phụ nữ.
2. Từ vị trí cán bộ tổng hợp, với sự nỗ lực không mệt mỏi, năm 2001, tại Đại hội Đại biểu Phụ nữ thành phố Đà Nẵng lần thứ X, chị Đỗ Thị Kim Lĩnh đã được bầu vào vị trí Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Đà Nẵng. Năm 2006, tại Đại hội XI, chị được tín nhiệm bầu vào vị trí Chủ tịch Hội. Ở cương vị mới, cũng là khi đất nước bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển, chị càng ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, từng bước đưa công tác Hội lên một tầm cao mới, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. Theo đó, từ 2006 đến nay, với trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức Hội, chị đã cùng với các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố phát động hội viên phụ nữ thực hiện thành công các công trình thi đua có ý nghĩa về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển của Đà Nẵng như: Vận động đóng góp ủng hộ xây dựng “Trung tâm chẩn đoán và chữa bệnh cho phụ nữ nghèo” (nay là Bệnh viện Phụ nữ); xây dựng công trình “Tôn tạo Khu tưởng niệm Nhà yêu nước Thái Thị Bôi”; xây dựng chương trình và quỹ “Tiếp sức cho phụ nữ nghèo” hỗ trợ cho chị em nghèo vay với lãi suất thấp hoặc không tính lãi để sản xuất, buôn bán, vươn lên thoát nghèo với tổng số tiền 3,316 tỉ đồng. Ngoài ra, chị đã tiên phong, tích cực vận động cán bộ, hội viên đóng góp xây dựng, sửa chữa 162 Nhà tình nghĩa, “Mái ấm tình thương” với tổng kinh phí 1,944 tỉ đồng; vận động được hơn 15 tỉ đồng để thực hiện các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chính sách hậu phương quân đội; đóng góp xây dựng Đền thờ Hai Bà Trưng, Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng. Trong năm 2011, chào mừng Đại hội Đại biểu Phụ nữ các cấp, chị đã chủ trương thực hiện công trình thi đua “Giúp đỡ cho 1.000 hộ phụ nữ thoát nghèo bền vững”. Ngay khi phát động công trình này, chị đã cùng với Thường trực Hội huy động được trên 2 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chị đã cùng với tập thể Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố chỉ đạo các cấp Hội tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: Nói chuyện chuyên đề, thi thuyết trình, kể chuyện, viết bài, hát về Bác; phát động phong trào vận động 100% hộ gia đình treo ảnh Bác Hồ, “Trang trí 5 điều Bác Hồ dạy ở góc học tập” cho con em cán bộ Hội…; Đặc biệt có nhiều mô hình “làm theo” hiệu quả như “Tiết kiệm nuôi heo đất”, “Hũ gạo tình thương”, “Nuôi trâu vàng tiết kiệm”, “Tiết kiệm một ngày đầu xuân”, “Mái ấm đồng tâm”, “Tấm lòng vàng vì phụ nữ nghèo”… Kết quả các cấp Hội đã vận động hội viên, phụ nữ “nuôi” 117.741 heo đất, trâu vàng với số tiền 10,167 tỉ đồng; trong đó hội viên phụ nữ đã trích ủng hộ 5,533 tỉ đồng giúp cho các gia đình phụ nữ nghèo;
Trong những mô hình hoạt động khá hiệu quả thời gian qua, tôi đặc biệt chú ý đến mô hình “3 trong 1” của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố. Đây cũng chính là sáng kiến mà chị là người “khởi xướng”. Với phương thức 3 người giúp đỡ 1 người: 1 cán bộ Hội, 1 đại diện cấp ủy hoặc Ban điều hành tổ dân phố, 1 tình nguyện viên, tham gia 1 trong 3 hoạt động: giúp phụ nữ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững; giúp đỡ, động viên trẻ em bỏ học trở lại trường hoặc cảm hóa trẻ em chưa ngoan trở nên tiến bộ; giúp đỡ gia đình thường xuyên xảy ra bạo lực không còn bạo lực gia đình. Dựa vào đó, các cơ sở đã tiến hành thành lập nhóm, chọn đối tượng giúp đỡ, phân công cụ thể và cam kết trách nhiệm từng thành viên thực hiện nhiệm vụ, đề ra chỉ tiêu, biện pháp và tiến độ thực hiện. Theo đó, thông qua các hoạt động của mô hình các cấp Hội đã giúp hàng ngànhộ phụ nữ thoát nghèo; hàng trăm em bỏ học trở lại trường và thanh thiếu niên hư có những biểu hiện tiến bộ tích cực.
Một hoạt động cũng đã làm vang động không chỉ trong thành phố mà còn đến với các tỉnh, thành trong cả nước, đó là việc chị đã cùng với Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố chỉ đạo cho các cấp Hội phối hợp với chính quyền địa phương và các ngành chức năng khảo sát, lập danh sách 130 gia đình thường xuyên có những hành vi bạo lực gia đình;tham mưu với đồng chí Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố tổ chức buổi găp mặt những ông chồng đã có hành vi bạo lực gia đình và trao đổi tọa đàm về “Vai trò của nam giới trong việc phát triển kinh tế và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc”. Tiếp đó, chị đã tổ chức buổi nói chuyện chuyên đề về "Kỹ năng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" với 130 người vợ là nạn nhân bạo lực gia đình và cùng với Ban Thường vụ Hội tham mưu cho Thành ủy ban hành Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20/10/2009 về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn Đà Nẵng.
Để làm tốt công tác này, chị đã chỉ đạo các cấp Hội phối hợp với các ngành, đoàn thể tổ chức gặp mặt các gia đình thường xuyên xảy ra bạo lực để tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp giúp đỡ. Đồng thời tiến hành ký cam kết thực hiện và kiên quyết đưa ra kiểm điểm trước tổ dân phố đối với những cặp vợ chồng đã ký cam kết nhưng vẫn thường xuyên để xảy ra bạo lực; triển khai nhiều hình thức giúp đỡ như động viên, tư vấn, hòa giải, hỗ trợ vốn làm ăn, tạo điều kiện để phụ nữ bị bạo lực gia đình được học nghề, vay vốn, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần; xây dựng các mô hình CLB như “Gia đình không có bạo lực”, “Phòng, chống bạo lực gia đình”… chủ động tham mưu cho lãnh đạo Đảng, chính quyền tổ chức gặp mặt, biểu dương và tặng quà động viên những gia đình tiến bộ.
Đặc biệt, với cương vị và trách nhiệm của mình, chị đã khai thác và tranh thủ được nguồn tài trợ của Cơ quan Hợp tác Phát triển quốc tế Tây Ban Nha và tổ chức Bắc Âu trợ giúp Việt Nam triển khai 2 dự án “Nâng cao năng lực tài chính nhằm giảm thiểu bạo lực gia đình” và “Tăng cường Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình”. Tổ chức các chiến dịch truyền thông trong cộng đồng và trường học với chủ đề “Nói không với bạo lực gia đình” , cấp phát tờ rơi, áo, mũ, thước kẻ, bút chì với nội dung “Đừng im lặng trước bạo lực gia đình” … thu hút hàng ngàn người dân và học sinh tham gia; thành lập các địa chỉ tin cậyđể hỗ trợ cho các nạn nhân bị bạo lực gia đình, trang bị giường, màn, gối, chăn, tủ thuốc, card điện thoại… để các địa chỉ tin cậy hoạt động. Đồng thời phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình vag vị thành niên (Csaga) tổ chức hội thảo “Chia xẻ kinh nghiệm hỗ trợ và giải quyết các trường hợp bạo lực gia đình” cho cán bộ các ban ngành liên quan; tập huấn “Nâng cao kỹ năng hỗ trợ giải quyết các trường hợp bạo lực gia đình” cho cán bộ Công tác xã hội, Tư pháp và Công an xã, phường – những người trực tiếp tham gia công tác phòng chống bạo lực gia đình tại cộng đồng; tổ chức Hội thi “Chung tay phòng chống bạo lực gia đình”. Với sự nỗ lực đó, đã có hàng trăm hộ có bạo lực gia đình giảm hoặc không còn bạo lực nữa.
Gần gũi, động viên, chia sẻ kịp thời là lời nhận xét của nhiều hội viên phụ nữ; cũng như khéo léo, giỏi công tác vận động, tuyên truyền là cảm nhận của giới truyền thông ưu ái dành cho chị. Những điều này đã giúp chị thành công trong suốt hai mươi năm làm công tác phụ nữ.
Khi chia sẻ với tôi những hiệu quả trong công tác Hội những năm gần đây, gương mặt chị không giấu được niềm vui khi vừa chăm lo được đời sống, vừa chia sẻ kịp thời những gánh nặng về tinh thần cho chị em phụ nữ. Chị bảo, đó là kết quả của cả một tập thể chứ không riêng gì cá nhân chị. Nhưng chị có quyền tự hào vì mình đã có những đóng góp tích cực vào những hoạt động đó. Chị nói mình là người phụ nữ may mắn khi cùng lúc có một cuộc sống gia đình hạnh phúc, một người chồng biết chia sẻ và những người bạn, người chị, người đồng nghiệp đáng tin cậy trong quá trình công tác. Những điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho chị, giúp chị từng bước làm tốt hơn nữa vai trò, nhiệm vụ của mình.
3. Tiếp xúc với chị, tôi có dịp đọc những bài viết có phần sắc sảo của chị trên các trang chuyên đề như: Có phải trẻ em gái thất học hôm nay sẽ ảnh hưởng đến chất lượng người phụ nữ ngày mai?; Phụ nữ Đà Nẵng cùng với những chặng đường của lịch sử quê hương; Phát huy truyền thống tốt đẹp của Bà mẹ Việt Nam anh hùng, phụ nữ Quảng Nam-Đà Nẵng nuôi và dạy con tốt, góp phần đào tạo những công dân có ích cho Tổ quốc… Đặc biệt, tôi đọc khá kỹ bài luận của chị về đề tài “Gia đình thành đạt hạnh phúc” chứa đựng sự trăn trở của một người phụ nữ đã có chồng con. Mở đầu bài viết, chị dẫn chứng: “Một lần, tôi đến thăm gia đình người bạn, vừa đến cửa tôi nghe tiếng khóc và tiếng nói tấm tức của người vợ: “Ngày trước 2 vợ chồng 2 chiếc xe đạp cọc cạch gia đình lại yên ấm hạnh phúc. Bây giờ chồng 1 xe máy, vợ 1 xe máy để dễ dàng cho ông đi với bồ miết phải không. Trời ơi là trời, sao mà khổ thế này!”. Trong con mắt của bọn tôi, gia đình của bạn thực sự đã là gia đình thành đạt, hạnh phúc vì cuộc sống gần như đã đầy đủ các tiện nghi, con 1 trai, 1 gái; cả hai đều là học sinh giỏi được nhận phần thưởng ở cấp trường, cấp phường, rồi cả hai cơ quan cha mẹ cũng có phần thưởng. Hai vợ chồng là bạn học từ thời phổ thông, thân nhau rồi yêu và thành vợ thành chồng… Vậy mà sao lại xảy ra chuyện đó, sự thật hay chỉ là ngộ nhận?”.
Khi đọc đến đoạn này, tôi nghĩ, hình như khi viết lên những điều này, chị đã để cảm xúc của mình lấn át phần chữ nghĩa. Bởi đó không còn đơn thuần là một bài viết về đề tài “Gia đình thành đạt hạnh phúc” mà còn là sự chia sẻ của những người bạn, người phụ nữ với nhau. Có lẽ vì thế mà theo chị, người phụ nữ cần phải biết tổ chức tốt cuộc sống gia đình, cân đối thu-chi hợp lý, biết quan tâm đến nhu cầu của các thành viên trong gia đình, biết làm đẹp, có lời nói nhẹ nhàng, văn hóa, biết nhường nhịn trong ứng xử và biết khéo léo giải quyết những mâu thuẫn trong gia đình. Ghen cũng phải có văn hóa, tế nhị, khôn khéo, không nên làm mất thể diện của chồng thì mình mới đạt được mục đích giữ gìn hạnh phúc gia đình. Theo chị, “cái kiểu ghen bóng, ghen gió, chuyện nhỏ xé ra to, làm chồng bực tức sẽ đẩy chồng đến với “bồ” nhanh hơn…”. Chính sự riêng, chung trong cách nói, cách nghĩ này đã khiến những bài viết, bài giảng của chị có sức lay động lòng người, giúp nhiều chị em có cách ứng xử hợp lý hơn trong đời sống vợ chồng, giữ gìn được hạnh phúc. Chị nói rằng, khi nói chuyện với chị em phụ nữ, chị như nói với chính mình, tự răn mình để sống xứng đáng hơn với vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình.
Nghe tôi hỏi: “Khi tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh khác nhau trong xã hội, chị có nghĩ mình may mắn bởi có được người chồng lẫn gia đình chồng đều ủng hộ chị không?”.
Ánh mắt chị lung linh hẳn lên: “Điều này là chắc chắn rồi. Em nghĩ coi, từ năm 1998 đến năm 2002, chồng chị công tác ở Tam Kỳ. Con nhỏ, chị lại đi suốt, mẹ chồng là người thay chị gánh vác hết việc nhà, tạo điều kiện cho chị học tập, toàn tâm toàn ý trong công tác Hội. Nếu không nhờ có mẹ, chưa chắc chị đã phấn đấu để có được vị trí như ngày hôm nay”.
Nói về cuộc sống gia đình mình, chị cũng không giấu diếm: “Tham gia công tác Hội khiến chị thường xuyên phải vắng nhà. Có những khi gia đình chị có đến 5 bếp cơm. Một của chồng, một của mẹ chồng, của 2 đứa con và của chị”. Tôi thắc mắc: “Sao mà 5 người lại có đến 5 bếp?”. Chị cười: “Vì chồng thì ở Tam Kỳ. Chị lại đang theo học khóa Cao học về ngành Tâm lý tại Đại học Sư phạm Huế. Mẹ chồng ở nhà một mình và 2 con học bán trú ở 2 trường khác nhau tại Đà Nẵng”.
Chị nói rằng, làm công tác phụ nữ, đi nhiều, chị ít có thời gian nhàn rỗi để chăm sóc gia đình. Nhất là khi nắm giữ vị trí Chủ tịch Hội, những chuyến đi ấy không còn gói gọn trong địa bàn thành phố mà còn xa hơn, ra các tỉnh thành khác. Tuy nhiên, chồng chị chưa từng phàn nàn về điều đó, bởi anh thông cảm cho công việc chị đang làm, hiểu mục đích chị đang theo đuổi. Có một lần, chị về đến Đà Nẵng sau chuyến công tác tại thành phố Hồ Chí Minh lúc trời đã tối nhưng 4 giờ sáng hôm sau, chồng chị đã dậy chở chị vượt đèo Hải Vân ra Huế bằng xe máy để chị kịp thời tham gia buổi kiểm tra kết thúc học phần môn học. Chính sự quan tâm, chu đáo của anh đã khiến chị hết sức cảm động và càng thêm trân trọng hạnh phúc mình đang có.
Gặp chị, tôi mới vỡ lẽ ra một điều: Khi có một mái ấm hạnh phúc, biết yêu thương, san sẻ và cảm thông cho nhau, thì từng thành viên trong gia đình sẽ được tiếp thêm sức mạnh để phấn đấu cho sự nghiệp của mỗi người. Đó cũng là những điều mà từng thành viên trong gia đình chị mang lại cho nhau.
Từ 20 năm nay, sự nghiệp của chị đã chuyển sang một hướng khác hoàn toàn mới, không như ước mơ làm cô giáo ngày nào trên mảnh đất Vân Lĩnh. Hỏi chị có tiếc không? Chị cười: “Nói không thì không đúng vì đó là ước mơ của một thời con gái, nhưng ở cương vị hiện nay, chính nghề sư phạm đã giúp chị có khả năng nói và viết, đáp ứng công tác tuyên truyền, vận động để phục vụ tốt hơn cho công việc hiện tại”. Và, có một điều chắc chắn rằng, con đường sự nghiệp phía trước của chị còn dài và không ít chông gai, nhất là khi, chị vừa tái trúng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII…
Tiểu Yến