Ra Bắc hay vào Nam, trên đường Điện Biên Phủ, cửa ngõ ra – vào nội đô Đà Nẵng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tượng đài người phụ nữ Việt Nam vẫn được nhân dân gọi một cách tôn kính và yêu thương là “Tượng đài Mẹ dũng sĩ Thanh Khê” hay thân thiết hơn “Tượng đài Mẹ Nhu”. Dáng đứng người Mẹ Việt Nam anh hùng nhắc ta nhớ lại trận đánh vô cùng anh dũng của những người con Đà Nẵng bất khuất trong sự che chở của Mẹ giữa lòng thành phố cách đây đã 45 năm. Đấy là một buổi sáng cuối năm 1968 – ngày 26/12/1968…
Từ năm 1967, để đẩy mạnh chiến tranh du kích vào thành phố Đà Nẵng, đánh địch bằng mọi cách. Từ đó đưa thế cách mạng lên tạo điều kiện di chuyển vũ khí, đạn dược vào thành phố. Một lực lượng bộ đội quận II gồm 6 đồng chí đưa vào Thanh Khê phường Thanh Lộc Đán (nay là phường Thanh Khê Đông) hoạt động. Đồng chí Bảy Vân, quận đội trưởng quận II trực tiếp lãnh đạo đơn vị vũ trang này. Từ Nam Ô, 6 chiến sĩ được chở xe máy về ngã ba Huế. Chị Nguyễn Thị Tám đưa các anh về cơ sở nhà mẹ Nhu (tên thật của mẹ là Lê Thị Dảnh) và mẹ Hiền. Các chiến sĩ ta về sống giữa lòng dân dày đặc lính Mỹ – Ngụy với các phương tiện vũ khí tối tân hiện đại nhất.
Do sự phản bội của tên Lữ Hùng – quận đội phó quận đội II, cơ sở nhà mẹ Nhu, nhà mẹ Hiền bị địch phát hiện. Và trận đánh ngoài dự kiến nhưng vô cùng dũng cảm đã diễn ra khốc liệt.
6 giờ sáng ngày 26/12/1968, 2 đại đội cảnh sát dã chiến và địa phương quân từ chi cảnh sát quận II trải dọc theo đường Trần Cao Vân đến ngã tư Thanh Khê. Chúng chia làm 3 hướng tiến công bao vây cả khu phố Thanh Khê 4 và Thanh Khê 5. Một mũi quân Ngụy ập vào nhà mẹ Nhu bắt anh Long (Phạm Phú Long) con trai mẹ Nhu. Tra tấn dã man anh Long gần 20 phút ngay tại sân nhà. Không moi được lời khai chỉ hầm bí mật, chúng cho giải anh đi. Ngay lập tức, chúng hùng hổ chĩa súng vào mẹ Nhu, quát: “Con già, hầm bí mật ở đâu? Khai mau”. Mẹ bình tĩnh trả lời: “Tôi sống giữa thành phố, làm chi mà có hầm hố?”. Chúng nạt: “Con già nuôi Việt cộng mà còn cứng đầu hả?”. Mẹ vẫn khăng khăng: “Tôi không biết”. Chúng đánh Mẹ, Mẹ quát lại: “Nếu tôi nuôi cộng sản trong nhà thì các ông là quân ăn hại hay sao mà không biết?”. Chúng dọa bắn, Mẹ bảo: “Tao không có hầm hố chi hết, bay muốn bắn tao thì bắn!”. Không khai thác được gì ở Mẹ, chúng đã hèn nhát nổ súng vào người Mẹ. Mẹ ngã xuống ngay bên hầm bí mật. Máu của mẹ đã đổ xuống để bảo vệ cho cuộc chiến đấu ngoan cường của các con mình.
Ba đồng chí Nguyễn Thị Tám, Đào Ngọc Huề, Trần Đình Trung nằm dưới hầm bí mật nghe hết những lời đối đáp của Mẹ với địch, đau xót nghe loạt đạn kẻ thù hạ sát Mẹ. Trước ảnh Bác Hồ dưới hầm, các anh chị thề sẽ chiến đấu đến cùng chứ không để lọt vào tay địch và sẵn sàng tư thế chiến đấu.
Bắn chết mẹ Nhu, địch cho xăm hầm bí mật khi chúng đụng đến nắp hầm, đồng chí Huề bất thần hất nắp hầm, tung 2 quả lựu đạn lên, lựu đạn nổ tiêu diệt và làm bị thương số lính Ngụy đang lố nhố trước miệng hầm. Bọn ngụy còn lập tức tung 2 quả lựu đạn cay vào hầm quyết bắt sống các chiến sĩ ta. Nhưng các chiến sĩ ta đã dùng khăn mặt ướt chống lại lựu đạn cay. Ngay sau đó, đồng chí Tám và đồng chí Trung nhảy vọt lên, dùng AK quét thẳng vào bọn địch đang kinh hoàng làm chết thêm một số tên. Thu 1 khẩu AR15 và lựu đạn, các chiến sĩ ta vừa đánh vừa tìm cách di chuyển sang nhà bên cạnh cố tìm cách liên hệ với tổ nhà mẹ Hiền.
Đến 8 giờ, tại nhà mẹ Hiền cũng đang diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt của các đồng chí Nguyễn Văn Chi, Ngô Văn Mười, Võ Văn Năm, Nguyễn Văn Phương với địch.
Khi mũi quân khác của địch bao vây nhà mẹ Hiền, các đồng chí lợi dụng bờ tường cao, từ kho muối là nơi ẩn nấp của tổ bắn trả mãnh liệt. Bọn địch không tài nào đột nhập vào nhà được. Ba đồng chí Năm, Chi, Phương nổ súng yểm trợ đồng chí Mười bẻ song sắt cửa sổ vượt ra ngoài tìm cách liên lạc với tổ tại nhà mẹ Nhu nhưng không được. Tổ quyết định vừa chiến đấu vừa di chuyển sang nhà bên cạnh, và tìm cách liên hệ với tổ nhà mẹ Nhu. Thấy sự kháng cự dữ dội của ta, địch tăng viện thêm một số cảnh sát, bảo an và bình định vây chặt cả khu vực Thanh Khê 4 và 5. Đồng thời, chúng dùng máy bay kêu gọi tên từng đồng chí của ta ra đầu hàng. Ta dùng tiểu liên nã thẳng lên máy bay, chúng hoảng sợ phải bay ra xa.
Trong khi đó, tổ nhà mẹ Nhu vừa lợi dụng địa hình nhà dân sát nhau chiến đấu, vừa di chuyển dần qua các nhà. Đến nhà tên ác ôn Kiểm Tương, các đồng chí Tám, Trung và Huề xử tội hắn tại chỗ, thu một súng cabin. Chuyển đến nhà trung sĩ ngụy Hai, các đồng chí ta vừa giáo dục tuyên truyền, vừa cảnh cáo Hai không được đàn áp nhân dân.
Đến 10 giờ, cuộc chiến đấu vẫn diễn ra ác liệt. Trước sức kháng cự của ta, địch điều 1 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ tăng viện, tiến theo hai hướng: từ biển Thanh Khê lên và từ quốc lộ ập xuống. Lực lượng địch tổng cộng lên đến 3 tiểu đoàn, gấp 80 lần lực lượng ta. Hai tổ chiến đấu của ta, dù chưa liên lạc được với nhau, vẫn ngoan cường đánh trả lực lượng đông đảo của địch, đánh bật từng đợt tấn công của chúng.
Di chuyển lần ra biển, tổ các đồng chí Tám,Trung và Huề chạm trán một lực lượng lính Mỹ và ngụy dày đặc. Khi băng qua đường hẻm, đồng chí Huề bị trúng đạn trọng thương. Tám và Trung cố dìu đi, Huề biết mình bị thương nặng, cương quyết ở lại, Anh đưa AK cho Tám và xin một quả lựu đạn quyết đổi mạng với địch và bảo Tám và Trung rút đi. Lính Mỹ lệnh cho đồng bào đến xem ” tên Việt cộng đã chết chưa”. Đồng chí Huề bảo “Các bác ra nói với tụi Mỹ là tên Việt cộng đã chết rồi” Khi lính Mỹ vào xem xác, đồng chí Huề tung lựu đạn diệt 5,6 lính Mỹ và anh dũng hy sinh. Các đồng chí Tám và Trung vừa bắn trả địch, vừa tiếp tục rút. Khi nhảy qua hàng rào, đồng chí Tám nhờ đồng chí Trung cắt đi mái tóc dài đen mượt của mình để khỏi làm vướng bận sự chiến đấu
Đến 12 giờ trưa, thấy vẫn không thể nào áp đảo được quân ta, địch bắt đầu rút lui. Hai đồng chí Tám và Trung rút đến hầm bí mật ở nhà anh Phương và bà Xã Xoài, nhưng hai cơ sở này đều đã bị lộ. Chờ đến tối, hai đồng chí ngụy trang băng qua đường Trần cao vân đi về Hòa Mỹ. Tại đây, hai đồng chí gặp được đồng chí Năm Dừa và được đưa về cơ sở an toàn.
Tổ 4 đồng chí tại nhà mẹ Hiền cũng tìm cách thoát vòng vây rút về cơ sở. Hai đồng chí Năm và Chi bị lạc đường, phải nằm lại bầu Phú Lộc, sau đó bị địch bắt, đưa đi đày cho đến ngày giải phóng. Hai đồng chí Mười và Phương rút được về cơ sở ở Hòa Liên, gặp các đồng chí Tám và Trung tại đây, củng cố lực lượng và tiếp tục chiến đấu.
Kết quả trận đánh, bảy chiến sĩ ta đã tiêu diệt hơn 80 tên lính Mỹ ngụy, thu một số súng và đạn dược, làm kinh hoàng bọn giặc ngay giữa hang ổ thành phố của chúng. Mẹ Nhu và đồng chí Đào Ngọc Huề anh dũng hy sinh, để lại tấm gương sáng muôn đời cho các thế hệ mai sau. Trận chiến đấu ngày 26-12-1968 của mẹ Nhu và bảy dũng sĩ Thanh Khê đi vào những trang sử chống Mỹ hào hùng của dân tộc, trở thành niềm tự hào chói lọi của quân dân Quảng nam Đà Nẵng anh hùng.
Và ngày nay, mẹ Nhu và hình ảnh của bảy dũng sĩ Thanh Khê vẫn ngời sáng, hiển hiện sừng sững giữa cửa ngõ ra, vào thành phố Đà Nẵng thân yêu.
(Theo lời kể của anh hùng LLVTND Nguyễn Thị Tám,
Là một trong bảy dũng sĩ Thanh Khê, hiện ở tổ 54 phường Thạc Gián)