Chị khóc và nói với tôi rằng “Tôi còn sống đến bây giờ đã là một hạnh phúc không thể lớn hơn, không có gì bằng rồi, còn bao anh em, bạn bè, đồng đội đã ngã xuống. Cuộc đời một người phụ nữ, vậy là trọn vẹn quá rồi…”

Những người cùng thế hệ chị bây giờ mỗi lần ngồi lại đều nhắc nhau nhớ về một thời không thể nào quên trên mảnh đất Quảng Nam – Đà Nẵng; ở đó, có nước mắt khóc thương những người đồng đội đã ngã xuống; ở đó, có nước mắt hạnh phúc ngày đoàn viên được tiếp tục cống hiến sức mình cho công việc. Và hơn hết, đấy là hành trang, là kho ký ức đầy ắp kỷ niệm của một thời tuổi trẻ với những giấc mơ bình yên. Đã nhiều lần được làm việc với chị vì những vấn đề liên quan đến Hội Từ thiện thành phố Đà Nẵng do chị làm Chủ tịch, nhưng lần này, khi ngồi với chị trong một buổi chiều Đà Nẵng mưa, tôi mới thấu hiểu được phần nào về cuộc đời của chị. Tôi là người may mắn được nghe trọn vẹn những kỷ niệm đáng nhớ suốt những tháng năm cống hiến và sống đẹp của chị.
Buổi chiều tháng Sáu trời Đà Nẵng mưa không ngớt!
Buổi chiều ngồi bên tôi, chị đã sống lại một thời oanh liệt. Và tôi đã cùng chị đi ngược lại thời gian, cùng lắng lại cảm xúc của hai người phụ nữ ở hai thế hệ. Ở hai miền quê cách mạng khác nhau, để cùng cảm nhận.
Tôi càng quý hơn người phụ nữ trạc tuổi mẹ tôi, chị đã vượt qua nhiều bom đạn chiến tranh, để tận hiến cuộc đời cho phong trào phụ nữ Quảng Nam – Đà Nẵng. 35 năm gắn bó với phong trào phụ nữ, đã có không ít thời gian chị cố nén lại những cảm xúc của mình, để những việc chị làm mang lại một chút gì đó đỡ đần cho những người phụ nữ đã phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả trong cuộc sống.
Chị là Lê Thị Tám, nguyên Thành uỷ viên, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ IX, X (1997-2007). Với niềm tin diệu vợi với Đảng, cách mạng, chị đã vượt qua tất cả và sống xứng đáng với niềm tự hào của một người con đất Quảng anh hùng!
Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào cho hợp lý khi đặt bút viết những dòng đầu tiên về chị vì chị đã rất chân thành khi nói với tôi rằng: “Đừng kể công chi về cuộc đời chị, em biết đó, cuộc sống này còn bao người cống hiến cho quê hương, đất nước giờ đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất. Mình được sống, thì phải sống cho xứng đáng thay luôn cho bao người ngã xuống, và cống hiến sức mình cũng để bù đắp lại những mất mát đó”. Với tôi, chị là chân dung tiêu biểu của người phụ nữ đất Quảng anh dũng, kiên cường và sống vị tha giữa cuộc đời. Suốt cuộc đời mình, chị đã gắn bó sâu nặng với phong trào phụ nữ. Tiếp xúc với chị rất nhiều lần trong công việc, nhưng chỉ khi những giọt nước mắt xúc động lăn lên gương mặt chị khi nghĩ về ký ức một thời sống trong bom đạn, tôi hiểu rằng, chị đang khóc vì hạnh phúc đã được sàng sảy qua chiến tranh, được sống thay cho bao bạn bè, đồng đội, những người thân yêu đã ngã xuống trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt trên mảnh đất Quảng Nam – Đà Nẵng anh hùng.
Quảng Nam những năm tháng máu đỏ và tiếng hát trái tim đầy nhiệt huyết.
Chị Lê Thị Tám sinh ra và lớn lên tại thôn Viêm Tây, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là con của một gia đình cách mạng, chị đã sớm ý thức được tình yêu quê hương, đất nước và đã sớm phải chứng kiến nhiều cảnh tang thương vì bom đạn chiến tranh trên quê hương. Những năm tháng tuổi thơ của chị trôi qua không bình yên trong chiến tranh khắc nghiệt. Qua những lần được tiếp xúc với các cán bộ cách mạng tại hai hầm trú ẩn ngay trong nhà mình-nơi mà mẹ chị nuôi giấu bộ đội, chị đã được các anh chị bộ đội, du kích địa phương dạy cách vót chông, gài mìn, làm giao liên.
12 tuổi, chị tham gia hoạt động trong Đội thiếu niên tiền phong, tập quen dần với những công việc bí mật được giao và nhanh trí xử lý tất cả những tình huống phải đương đầu. Chị làm giao liên hoạt động bí mật trong lòng địch. Năm 1966, chị dẫn đầu phong trào thanh thiếu nhi địa phương đi đấu tranh chính trị, khi địch đang càn quét dữ dội lên ruộng đồng của bà con quê mình. Chị bị địch bắt khi liên tục hô vang khẩu hiệu: “Đã đảo đế quốc Mỹ”, lúc đó chị 14 tuổi.
14 tuổi, chị bị địch bắt và giam cầm hơn 2 tháng tại các nhà tù Hòa Cầm, Vĩnh Điện, Hội An. Bị tra tấn dã man nhưng chị một mực không khai nhận. Sau đó địch thả chị ra. Về lại địa phương, chị tiếp tục hoạt động cách mạng, sống hợp pháp, hoạt động trong lòng địch, nắm tình hình hoạt động của địch để báo cáo với các đồng chí lãnh đạo, được các đồng chí lãnh đạo giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Chị được phân công vận động thanh niên lên đường nhập ngũ.
Giữa năm 1969, chị vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi chưa tròn 18 tuổi – là một trong những Đảng viên trẻ nhất của địa phương lúc bấy giờ. Đây là mốc son đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời của chị, bởi từ đó, chị lại được tiếp thêm niềm tin, sức mạnh để vững vàng hơn trong từng nhiệm vụ, gắn bó và cống hiến cho hoạt động phong trào địa phương sôi nổi, được bầu làm Bí thư chi bộ thôn Viêm Tây, hoạt động cách mạng hợp pháp.
Cũng trong năm này, chị bị bắt lần nữa, địch giam chị ở nhà tù Thanh Long, Thanh Lọc, Thanh Bình, Hội An. Đây là lần thứ ba địch bắt giam, tra tấn chị. Thời gian này chiến tranh diễn ra ác liệt nhất. Chị lại thêm lần nữa chịu đựng tất cả những đòn tra tấn dã man của địch. Chúng nhốt chị trong một cái toa lét chật chội, hôi hám, dùng mọi cực hình để hòng lấy lời khai từ chị. Cũng như nhiều đồng đội bị địch bắt giam tù đày lúc bấy giờ, chị đã phải nếm trải những hình thức tra tấn dã man như uống nước xà phòng, bắt ăn thức ăn thiu, thối…Và chị bị ám ảnh nhất là việc chúng dùng dây cột hai đầu vú, hai ngón tay trỏ để tra điện và đánh đập. Chúng còn dùng hình thức lấy dây thừng cột chị trên một chiếc ghế dài rồi đổ nước xà phòng, nước mắm thối lên người chị. Đau đớn. Tủi nhục. Nhưng chị vẫn cắn răng chịu đựng trước những đòn tra tấn, đánh đập dã man. Ngất rồi tỉnh. Tỉnh rồi ngất. Những thủ đoạn đó không hề làm người phụ nữ can trường như chị mảy may khuất phục. Địch bất lực và phải thả chị ra khỏi nhà tù.
Những năm 1971-1973, Quảng Nam-Đà Nẵng bị địch càn quét dữ dội, hàng triệu tấn bom đạn đã đổ xuống mảnh đất này. Địa bàn Gò Nổi, Điện Bàn trở thành chiến trường ác liệt đẫm máu nhất trên đất Quảng Nam. Vùng đất Gò Nổi bị địch quần nát đêm ngày, nhà cửa của bà con làng xóm bị địch đốt sạch. Thời gian này chị công tác tại Huyện ủy Điện Bàn, đóng tại Vùng C; đến tháng 3-1973 chị được điều động về nhận công tác tại Ban tổ chức Đặc khu ủy Quảng Đà, sau đó về công tác tại Hội phụ nữ Quảng Đà và tiếp tục đi về vùng sâu, vùng xa như Vùng A, B, C thuộc huyện Điện Bàn để xây dựng cơ sở cách mạng trong lòng địch. Bốn lần chị trúng đạn suýt chết. Có những trận càn, chị cùng anh chị em đồng đội khác đều trúng đạn, bị thương, cũng có lần một nhóm 5 đồng chí cùng đi với chị đều bị địch bắn chết. Chị bị ám ảnh bởi những cơn đau thường trực khi nghĩ đến những năm tháng đó, không có sức chịu đựng nào lớn hơn ngoài niềm tin vào Cách mạng. Chị vượt lên tất cả bằng sức mạnh của một người con đất Quảng, với niềm tin tuyệt đối vào Đảng, vào Cách mạng, chị đã sống và cống hiến hết những năm tháng tuổi trẻ với bao khát vọng tràn đầy cho ngày quê hương được giải phóng.
Năm 1974, những ngày gần giải phóng, chị về lại vùng Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam quê chị để cùng với nhiều đồng chí nơi đây hoạt động cách mạng. Kêu gọi, vận động chị em phụ nữ thực hiện phong trào “Ba mũi giáp công”; vận động quần chúng nhân dân thực hiện phong trào “Bám đất, bám làng, một tấc không đi, một ly không rời” để đấu tranh với địch, góp sức nuôi giấu cán bộ cách mạng để đánh thắng kẻ thù. Chị đã được chị Nguyễn Thị Nhạn (chị Mười Nhạn- nguyên Hội trưởng Hội Phụ nữ Quảng Đà) lãnh đạo, phân công cùng nhiều đồng chí cán bộ phụ nữ như các chị Vân Lan, Mười Hoa, Nguyệt Ánh…kêu gọi, tổ chức cho nhân dân tiếp quản các căn cứ cách mạng ở Đà Nẵng. Những năm tháng lội rừng lội suối, tham gia cách mạng đó, ngoài những lần bị địch bắt giam, tra tấn, chị còn bị sốt rét rừng hành hạ, thiếu thốn trăm bề…vậy mà chị không hề quản ngại khó khăn. Chị tham gia Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Quảng Nam-Đà Nẵng, tiếp tục phát động phong trào phụ nữ tại các địa phương, hàn gắn vết thương chiến tranh đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm để xây dựng quê hương Quảng Nam-Đà Nẵng.
Cống hiến trọn vẹn với phong trào.
Đến năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, cùng với phụ nữ cả nước, phụ nữ Quảng Nam-Đà Nẵng đã vận động chị em tham gia các phong trào do Trung ương Hội phát động. Bản thân chị, trở về từ bom đạn chiến tranh, tiếp tục những phần việc còn dở dang, dồn hết tâm huyết cho phong trào phụ nữ. Qua quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ, vừa hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, vừa học văn hoá, học chính trị, từ một cán bộ phụ nữ, chị đã được tín nhiệm, được các đồng chí lãnh đạo giao nhiều nhiệm vụ mới. Chị là Phó hội trưởng Hội Phụ nữ Quảng Nam – Đà Nẵng trong hai nhiệm kỳ từ năm 1987-1997. Được giao phụ trách các phong trào phụ nữ: “Phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà”, “Phong trào phục vụ nông nghiệp”, “Tiết kiệm trong sản xuất”,… chị đã cùng các chị trong Ban Chấp hành, Cơ quan Hội lăn lộn, sâu sát với cơ sở, làm tốt phong trào, thu hút được hàng ngàn phụ nữ địa phương hưởng ứng tích cực. Sau giải phóng, mọi thứ đều khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, cán bộ chuyên trách về phong trào lại càng khó khăn hơn. Khó nhưng không phải không làm được, khó nhưng không phải buông xuôi. Đây là khoảng thời gian chị dốc hết sức lực cho phong trào với các chương trình hành động: "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo", "Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan", “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, “Thực hành tiết kiệm theo gương Bác”, “Ủng hộ xây dựng mái ấm tình thương” và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện.
Tháng 11-1996, xuất phát từ yêu cầu khách quan, Quốc hội khoá X tại kỳ họp lần thứ 10 đã thông qua Nghị quyết tách tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Đà Nẵng vươn lên thành trung tâm kinh tế khu vực miền Trung. Ngày 1-7-1997, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ra quyết định chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Đà Nẵng gồm 20 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí. Ngày 17-18/4/1997, tại Đà Nẵng, Ban Chấp hành lâm thời Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Đà Nẵng đã tổ chức Đại hội đại biểu Phụ nữ Đà Nẵng lần thứ IX (nối tiếp nhiệm kỳ VIII của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trước đó). Chị Tám được bầu giữ chức Chủ tịch Hội trong hai nhiệm kỳ IX (1997-2001), X (2001-2007) và được bầu Thành uỷ viên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Trong thời gian làm Chủ tịch Hội, niềm hạnh phúc của chị là được cùng với Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố tạo điều kiện giúp đỡ nhiều phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, cùng họ vượt qua những ngặt nghèo của cuộc sống. Làm việc nhiều, tiếp xúc nhiều với hàng trăm hoàn cảnh phụ nữ khác nhau, chị đã có thêm kiến thức để vững vàng, xử lý mọi tình huống nhanh và hợp tình, hợp lý. Chị lại thêm gắn bó và say mê phong trào, chị đã tích lũy được cho bản thân những kinh nghiệm quý báu. Cọ xát với thực tế khó khăn chung của toàn thành phố sau những năm đổi mới, Hội Phụ nữ có một vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là cầu nối, vừa là hậu phương vững vàng trong lao động sản xuất để cải thiện đời sống, làm xanh lại những ruộng đồng đã bạc trắng đạn lửa chiến tranh. Cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau kết nối sức mạnh tập thể để khẳng định vai trò của người phụ nữ. Chị là người đã đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng xây dựng phong trào phụ nữ Đà Nẵng sớm gặt hái được nhiều thành tích đáng kể như hôm nay. Hàng trăm phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh được sẻ chia, hàng trăm mái ấm tình thương được xây tặng những gia đình neo đơn, hàng nghìn lượt học sinh được tiếp sức đến trường, nhiều hộ gia đình có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển kinh tế, từ đó thoát nghèo bền vững. Không chỉ làm tốt vai trò quản lý, chị còn là người tạo điều kiện cho lớp cán bộ phụ nữ kế cận của Hội có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ chính trị, năng lực quản lý và kỹ năng hoạt động phong trào. Trong 10 năm với vai trò Chủ tịch Thành Hội, chị luôn tự hào vì đã góp phần đào tạo được lớp cán bộ trẻ kế cận mà hiện nay họ rất thành công, đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong Thành Hội cũng như một số sở, ban, ngành của thành phố Đà Nẵng. “Điều quan trọng nhất và còn lại khi không còn hoạt động ở Hội nữa đó là sự tôn trọng, quý mến mà các thế hệ cán bộ hội viên dành cho mình. Cuộc sống vẫn luôn công bằng với tất cả mọi người, không riêng gì bản thân chị, làm gì khi mình trải qua một công việc mà mình yêu thích để không phải ân hận điều gì. Về hưu gần năm năm nhưng chị vẫn theo dõi sát sao những hoạt động của Thành hội phụ nữ Đà Nẵng. Mình sống, điều cốt lõi còn lại vẫn là cái tình giữa con người với con người…”. Chị chỉ nói đơn giản về bản thân như thế, nhưng tôi hiểu đằng sau đó, chị đã gửi gắm điều tâm huyết của mình.
“Làm sao để phụ nữ là trung tâm xây dựng hạnh phúc gia đình?”
Đó là câu hỏi chị đặt ra và cũng là điều chị luôn băn khoăn, trăn trở đối với phong trào phụ nữ. Chị cho rằng vai trò của phụ nữ tham chính vẫn rất mờ nhạt trong xã hội hiện nay, ngoài công việc, họ còn gánh trên vai trọng trách đối với gia đình. Suốt cuộc đời phụ nữ, luôn canh cánh bên mình trách nhiệm chăm lo, vun vén chu toàn cho hạnh phúc gia đình, họ ít hoặc không được chia sẻ từ phía gia đình những công việc nội trợ. Việc nhà vẫn luôn đè nặng đôi vai họ và áp lực công việc lại là điều thách thức họ phải vượt lên trên tất cả. Đời sống hiện nay đã được nâng lên, nhưng không phải vì thế mà hạnh phúc gia đình được gìn giữ. Xã hội càng phát triển, vai trò của người phụ nữ trong gia đình lại quan trọng hơn bao giờ hết. Trong chuyện kể về hạnh phúc chính gia đình mình, chị đã không ngần ngại cho tôi biết về mối tình của chị trong chiến tranh. Được anh em đồng đội giới thiệu, chị và anh quen rồi yêu nhau trong những ngày chiến tranh ác liệt nhất trên mảnh đất Quảng Nam, Đà Nẵng. Chồng chị là anh Đặng Hữu Tại, nguyên Ủy viên Ban Tổ chức đặc khu ủy Quảng Đà, nguyên Bí thư Huyện ủy Điện Bàn, nguyên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1973, đám cưới của anh chị giữa chiến khu được tổ chức đơn sơ nhưng ấm áp tình đồng đội. Cũng từ trong gian nan, vất vả và ranh giới sự sống-chết rất mong manh đó, trời đã thương cho anh chị được sum vầy hạnh phúc đến bây giờ. “Hai vợ chồng cùng tham gia cách mạng, cùng vào sinh ra tử, cả hai đều thương tật, tù đày tra tấn nhưng mẹ tròn con vuông, không bị di chứng chiến tranh, các cháu nội ngoại chào đời đều khỏe mạnh”. Bây giờ, những phút thảnh thơi ngồi nhớ lại cả cuộc đời mình, với nghĩa tình vợ chồng son sắt, chị lại đọc lại đôi câu thơ đã được chồng viết tặng riêng mình những năm chiến tranh ác liệt nhất:
Núi cao tình lặng thầm thương
Yêu người con gái quê hương của mình
Trông sao đến buổi bình minh
Cho đôi chim én tắm mình trong Xuân
Chị thấy, bình minh trên quê hương đất nước, bình minh trong thôn xóm và cả gia đình nhỏ của mình đã làm chị vui lên, vững vàng vượt qua tất cả để giữ gìn hạnh phúc. Chị chia sẻ điều đó như một minh chứng cho tình yêu, niềm tin và cả khát vọng sống của mình. Ở đó có cả lòng biết ơn sâu đậm với quê hương và đồng đội.
Tôi hỏi chị về bí quyết để thành công trong công việc và hạnh phúc trong hôn nhân. Chị cười rất hiền: “Đâu phải đời sống được no đủ, thoải mái mà hạnh phúc gia đình được tràn đầy đâu em. Xã hội ngày nay đòi hỏi quá khắt khe với người phụ nữ. Chị chỉ nghĩ đơn giản, hạnh phúc gia đình thường giản đơn, là sự đồng cảm, sẻ chia và là nơi để mỗi chúng ta bình yên khi trở về. Phụ nữ cũng như bếp lửa vậy. Phải luôn giữ ấm trái tim mình và sống nhân hậu với cuộc đời”. Để vừa là người phụ nữ thành đạt trong công việc, vừa là người mẹ, người vợ được chồng con thương yêu, chị đã có một thời gian dài tự học và phấn đấu. Sau giải phóng một năm, chị sinh con trai đầu lòng. Con được 14 tháng tuổi chị gửi con về quê nhờ mẹ chồng chăm sóc để vào thành phố Hồ Chí Minh theo học lớp Trung cấp chính trị. Một thời gian sau đó, chị hoàn thành tiếp các lớp Cao cấp chính trị, Cử nhân. Thời đó, bữa cơm hàng ngày chỉ có sắn khoai và bo bo. Hai vợ chồng, người ở Quảng Nam, người ở Đà Nẵng, một mình chị nuôi con, vừa học, vừa làm việc. Với chị đó là khoảng thời gian thử thách nhiều thứ, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Mãi đến năm 1992 vợ chồng chị mới được đoàn tụ. Chị tâm sự rằng, cái khó nhất của một cán bộ phụ nữ là gánh nặng trách nhiệm với gia đình và thời gian làm việc không phải tám tiếng mà là cả ngày lẫn đêm. Muốn làm tốt cả hai, người phụ nữ phải biết “tổ chức”cuộc sống của mình cho phù hợp. Phải sống gương mẫu và chỉnh chu trong tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày. Người phụ nữ phải hội tụ được tính cách nhẫn nhịn mới hoạt động phong trào được. Khi tâm sự với tôi những điều này, chị đã kể lại câu chuyện vừa chứng kiến được tại xã Hòa Sơn khi chị đi kiểm tra, xác minh hoàn cảnh của một gia đình để tặng mái ấm tình thương. Khi chị đến nhà này, người chồng đang say rượu và chén bát ăn cơm còn bỏ chỏng chơ giữa căn nhà trống không. Chị gặng hỏi thì người chồng chỉ buồn rầu nói mỗi một câu “Nhà không có đàn bà nên thế”. Vì chị vợ chết trong một tai nạn giao thông, chỉ còn người chồng và đứa con trai đang học cấp hai. Chị nói rằng khi chứng kiến cuộc sống bất hạnh đó, chị không thể cầm lòng. Nước mắt lại rơi và chị lại tìm cách đắp đầy những dự định trong công việc dù bây giờ tuổi chị đã cao và sức khỏe đã dần hạn chế. Với chị, công việc chỉ dừng lại khi sức không còn đủ để đi. Cho đến bây giờ, hàng ngày chị vẫn đều đặn làm việc ở Hội Từ thiện thành phố Đà Nẵng. Chị nói rằng, về hưu nhưng còn được tín nhiệm, còn sức thì cứ tiếp tục gắn bó với phong trào, giúp những người có hoàn cảnh nghèo, bất hạnh. Là người sinh ra cho phong trào nên khi nghỉ hưu chị lại được giao làm tiếp nhiệm vụ Chủ tịch Hội Từ thiện thành phố Đà Nẵng. Đã lên chức bà nội, bà ngoại, nhưng chị vẫn giữ cho mình tình yêu thiết tha với cuộc sống.
Trong ngôi nhà đầm ấm ở số 49 đường Thanh Thủy, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, chị vẫn hàng ngày dạy cho con cháu những lẽ sống đời thường. Được dịp cùng chị lật giở lại những tấm ảnh đen trắng đã úa màu thời gian, được nhìn ngắm thành quả hoạt động phong trào tròn 35 năm của chị với rất nhiều phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước như Huân chương Quyết thắng, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhì, Huân chương lao động hạng Nhì, Ba, danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc và nhiều bằng khen, giấy khen khác; tôi càng hiểu và trân trọng thêm những đóng góp của chị với xã hội. Và tôi tự hứa với chính mình sẽ noi theo, học tập ở chị những điều giản dị nhất trong cuộc sống để cùng tiếp nối những dự định, ước mơ của chị ngày nào.
Khép lại những dòng viết về chị, tôi vẫn còn thấy mình chưa thể hiện hết những điều cảm nhận về chị. Nhưng cũng như lời chị nói, sống ở đời cần nhất vẫn cái tình. Tình người. Tình yêu và niềm chia sẻ hiến dâng của tuổi trẻ cùng những khát vọng chưa được thực hiện nay trao lại cho thế hệ cận kề. Có một điều rất ngẫu nhiên trong cuộc đời chị Tám mà tôi chưa nhắc tới, đó là bây giờ chị lại là người “cố vấn” về hoạt động Hội cho người con dâu – chị Nguyễn Thị Huyền hiện là Chánh văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Đà Nẵng. Chị nói đây là cái duyên kế nghiệp trong phong trào phụ nữ mà chị sẽ trao lại tất cả những kinh nghiệm của mình cho con dâu. Với niềm tin tưởng rất lớn vào thế hệ hôm nay, xóa bớt khoảng cách thời gian, làm tốt vai trò của những người cán bộ Hội phụ nữ, quy tụ được sức mạnh tập thể, cùng vươn lên và sống tốt với cuộc đời.
Nguyễn Thị Anh Đào